Khả năng tái tạo và tính bền vững Năng_lượng_địa_nhiệt

Năng lượng địa nhiệt được cho rằng có khả năng tái tạo vì bất kỳ một dự án khai thác nhiệt nào cũng nhỏ hơn so với toàn bộ nhiệt của Trái Đất. Trái đất có nội nhiệt ¬¬¬ 1031 juns(3•1015 TW•/ giờ), xấp xỉ 100 tỷ lần toàn bộ nguồn năng lượng tiêu thu hàng năm của toàn thế giới (2010).[1]. Có khoàng 20% nguồn nhiệt này là từ sự bồi tụ và sự phân rã phóng xạ đã tồn tại trong quá khứ.[8] Dòng chảy của nguồn nhiệt tự nhiên không cân bằng, và nhiệt độ sẽ giảm đi theo niên đại của địa chất. Sự khai thác của con người chiếm một phần nhỏ của trong dòng chảy tự nhiên, thường không đáng báo động. 

Năng lượng địa nhiệt được xem như là có tính bền vững lâu dài nhờ vào nguồn năng lượng này để duy trì hệ sinh thái trên Trái Đất. Sử dụng các nguồn năng lượng tự nhiên này sẽ giúp cho con người không gây hại cho nguồn năng lượng của thế hệ tương lai, để sử dụng nguồn năng lương của họ cùng một lượng tương tự với nguồn năng lượng hiện tại đang dụng. Hơn thế nữa, nhờ vào nguồn năng lượng địa nhiệt có lượng thải ra khí thấp nên nó được xem như một nguồn năng lượng tiềm năng để giảm thiểu hiện tượng nóng lên toàn cầu.

Mặc dù nguồn năng lượng địa nhiệt phù hợp và lâu dài để bảo vệ môi trường, việc khai thác cần phải được kiểm soát để tránh tình trạng khai thác tràn lan gây nên tình trạng cạn kiệt tại địa phương.[9]. Trong suốt những thập kỷ qua, những giếng đào tư nhân đã gây ra sự sụt giảm nhiệt độ và mực nước cho đến khi có một sự cân bằng mới đạt được trong dòng chảy tự nhiên. 3 khu vực  lâu đời nhất tại Larderello, Wairakei, và Geyser từng bị giảm đi lượng nước do sự cạn kiệt của địa phương. Nhiệt và nước, với tỷ lệ không phù hợp đã bị khai thác nhanh hơn so với khi chúng được kịp bổ sung cho nhau. Nếu sản lượng nhiệt và nước được lấy lại, những giếng này về mặt lý thuyết có thể phục hồi đầy đủ tiềm năng. Các chiến lược giảm nhẹ như vậy đã được thực hiện tại một số địa điểm. Sự bền vững lâu dài về năng lượng địa nhiệt đã được chứng minh tại mỏ Lardarello ở Ý từ năm 1913, tại mỏ Wairakei ở New Zealand từ năm 1958 [10], và tại mỏ Geysers ở California từ năm 1960. 

Việc suy giảm trong sản xuất điện năng cũng có thể là thúc đẩy quá trình đào khoan thềm các lỗ khoan bồ sung như ở Poihipi và Ohaaki. Nhà máy điện Wairakei đã hoạt động được lâu dài hơn, với đơn vị đầu tiên được đưa vào hoạt động vào tháng 11 năm 1958 và đạt được công suất 173MW vào năm 1965, tuy nhiên nguồn cung cấp hơi nước áp lực đã giảm, năm 1982 bị giảm áp lực trung bình và trạm kiểm soát 157 mW. Khoảng đầu thế kỷ 21 nó có thể kiểm soát được khoảng 150 MW, sau đó vào năm 2005 hai hệ thống isopentane ((CH3)2CH2 CH2CH3) 8MW được thêm vào, tăng sản lượng của trạm khoảng 14MW. Dữ liệu chi tiết không có sẵn đã bị mất do việc tổ chức lại. Một trong những việc tổ chức lại vào năm 1996 khiến không còn dữ liệu ban đầu cho Poihipi (bắt đầu năm 1996), và khoảng cách năm 1996/7 đối với Wairakei và Ohaaki; dữ liệu nửa giờ cho vài tháng hoạt động đầu tiên của Ohaaki cũng bị thiếu, cũng như phần lớn lịch sử của Wairakei.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Năng_lượng_địa_nhiệt http://www.bassfeld.ch/Energy/assets/Geothermal_Po... http://www.geysers.com/ http://www.glacierpartnerscorp.com/geothermal.php http://hypertextbook.com/facts/2003/AdamCassino.sh... http://www.badische-zeitung.de/staufen/hoffnung-in... http://www.dlr.de/en/desktopdefault.aspx/tabid-510... http://www.geothermie.de/iganews/no64/the_celebrat... http://www.dac.dk/en/dac-cities/sustainable-cities... http://adsabs.harvard.edu/abs/1993RvGeo..31..267P http://adsabs.harvard.edu/abs/2007AGUFM.V53F..08D